NCS. Đào Bùi Kiên Trung bảo vệ Luận án Tiến sĩ (24.1.2025)

Vào hồi 15h00 ngày 24.01.2025, NCS. Đào Bùi Kiên Trung – chuyên ngành Kinh tế học (Toán kinh tế) đã bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ.

Nghiên cứu sinh: Đào Bùi Kiên Trung

Đề tài: Tác động của chính sách tiền tệ tới nền kinh tế Việt Nam – tiếp cận bằng mô hình cân bằng tổng quát động ngẫu nhiên (DSGE).

Người hướng dẫn: PGS.TS. Ngô Văn Thứ

Hội đồng

  • Chủ tịch hội đồng: GS.TS. Nguyễn Quang Dong – Đại học Kinh tế Quốc dân
  • Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Thị Minh Nhàn – Trường Đại học Thương mại
  • Phản biện 2: TS. Đặng Đức Anh – Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế – xã hội quốc gia
  • Phản biện 3: PGS.TS. Từ Thúy Anh – Trường Đại học Ngoại thương
  • Ủy viên thư ký: TS. Nguyễn Mạnh Thế – Đại học Kinh tế Quốc dân
  • Ủy viên hội đồng: PGS. TS. Nguyễn Thị Nguyệt – Trường Đại học Thương mại
  • Ủy viên hội đồng: PGS.TS. Bạch Ngọc Thắng – Đại học Kinh tế Quốc dân
  • Những đóng góp mới của luận án:

Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận

(1) Luận án nghiên cứu, áp dụng và phát triển hai mô hình nghiên cứu chính sách tiền tệ cho Việt Nam: (i) Mô hình DSGE cho nền kinh tế mở (SOE-DSGE) với các giả định của trường phái chu kỳ kinh doanh thực (Real Business Cycle – RBC) và New Keynes như cạnh tranh độc quyền, sự trì trệ danh nghĩa của giá cả và các cá thể kinh tế hình thành kỳ vọng hợp lý và tối ưu hóa hàm phúc lợi. Luận án phát triển tính không đồng nhất vào mô hình khi phát triển hai hộ gia đình đại diện: hộ gia đình bị ràng buộc tài chính và hộ gia đình không bị ràng buộc tài chính. Theo đó, ngân hàng trung ương sử dụng hai công cụ chính sách là lãi suất và cung tiền. Công cụ lãi suất có tác động truyền dẫn đến hộ gia đình không bị ràng buộc tài chính và công cụ cung tiền tác động đến hộ gia đình bị ràng buộc tài chính. (ii) Mô hình bán cấu trúc theo trường phái New Keynes với phương trình điều hành tỷ giá của ngân hàng trung ương. Theo đó, luận án đóng góp vào quá trình nghiên cứu và phổ biến về lớp mô hình DSGE như một công cụ mang tính chặt chẽ về lý thuyết và có thể mô tả những câu chuyện, cơ chế vận hành của nền kinh tế một cách đơn giản với những giả định rõ ràng của kinh tế học. Luận án đã bổ sung hộ gia đình đại diện không bị ràng buộc tài chính vào mô hình DSGE. Với mô hình bán cấu trúc, luận án đã đưa vào phương trình điều hành tỷ giá của ngân hàng trung ương.

(2) Với việc áp dụng các mô hình với sự phát triển nêu trên, luận án đóng góp kết quả nghiên cứu về ràng buộc tài chính và cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ trong môi trường ràng buộc tài chính, đóng góp kết quả phân tích về các cơ chế điều hành chính sách tiền tệ khác nhau. Luận án đóng góp khả năng so sánh phản ứng của các biến số vĩ mô với các cú sốc dưới các cơ chế điều hành chính sách tiền tệ khác nhau, bao gồm cả các chế độ tỷ giá khác nhau.

Những phát hiện, đề xuất mới rút ra được từ kết quả nghiên cứu, khảo sát của luận án

(1) Kết quả ước lượng mô hình cho thấy có khoảng hơn 30% hộ gia đình chịu ràng buộc tài chính. Do đó, kết quả phân tích cú sốc lãi suất cho thấy sự tồn tại yếu tố sức ì, không hoàn hảo (imperfections) của thị trường tài chính không làm suy yếu tác động của kênh truyền dẫn lãi suất. Với việc mô hình hóa ngân hàng trung ương sử dụng cả hai công cụ chính sách tiền tệ là lãi suất và cung tiền, cung tiền cũng có tác động đến biến số vĩ mô, tuy nhiên tác động mạnh vào lạm phát hơn so với sản lượng kinh tế. Tác động của tỷ giá, cung tiền lên sản lượng kinh tế khiêm tốn hơn so với tác động lên lạm phát, trong khi tác động lên lạm phát có xu hướng kéo dài và sức ì lớn hơn.

(2) Với sự gia tăng mức độ ràng buộc tài chính trong nền kinh tế, sản lượng, lạm phát và tỷ giá biến động mạnh hơn với các cú sốc và nguyên nhân là do sự tương tác giữa hai công cụ lãi suất và cung tiền của ngân hàng trung ương. Bên cạnh đó, so sánh giữa mô hình SOE-DSGE với hai hộ gia đình được ước lượng và mô hình tiệm cận một loại hình hộ gia đình không chịu giới hạn tài chính, sự khác biệt trong phản ứng với các cú sốc chủ yếu thể hiện qua sự gia tăng biến động của sản lượng (biến động lạm phát và tỷ giá gần như tương đồng nhau).

(3) Kết quả ước lượng mô hình cho thấy tại Việt Nam ngân hàng trung ương điều hành chính sách lãi suất với mục đích ổn định cả ba biến số là lạm phát, sản lượng và tỷ giá (với trọng số tương đối, khác nhau). Trong trường hợp chính sách lãi suất bỏ qua mục tiêu đối với tỷ giá (có thể hiểu là một trong những bước đi nhằm linh hoạt hóa tỷ giá), kết quả phân tích ủng hộ xu hướng tập trung nhiều hơn vào mục tiêu ổn định lạm phát; tuy nhiên, điều hành ổn định tỷ giá vẫn có vai trò nhất định đối với mục tiêu cuối cùng là ổn định giá cả và sản lượng kinh tế.

(4) Cơ chế tỷ giá thả nổi (do thị trường quyết định) cho phép tỷ giá danh nghĩa diễn biến linh hoạt với mức độ biến động cao hơn, góp phần hấp thu các cú sốc. Theo đó, các biến vĩ mô như chênh lệch sản lượng, lạm phát và lãi suất có xu hướng ít biến động hơn trong phản ứng với các cú sốc này. Mặt khác, so sánh hàm phản ứng với cú sốc lãi suất chính sách trong các cơ chế tỷ giá khác nhau cho thấy trường hợp sự linh hoạt của tỷ giá không góp phần hấp thu mà còn có xu hướng khuếch đại cú sốc bởi biến động tỷ giá (ở đây là đà tăng mạnh của đồng nội tệ trước cú sốc lãi suất và tương tự là dòng vốn quốc tế). Trong trường hợp này, các biện pháp ổn định tỷ giá góp phần ổn định biến động kinh tế như đề xuất khung khổ chính sách tích hợp của IMF.

 

Một số hình ảnh